Lịch sử Sinh Tồn Đông

Đầu năm 1978, tình hình ở khu vực quần đảo Trường Sa diễn biến phức tạp, Philippines đưa quân chiếm đóng bãi An Nhơn (cồn san hô Lan Can), Malaysia cũng đưa nhiều tàu thuyền quân sự đến khu vực Nam quần đảo Trường Sa. Quân chủng Hải quân quyết định, phải nhanh chóng đưa quân đổ bộ và đóng giữ tại các đảo nổi còn lại của quần đảo Trường Sa gồm có đảo Đá Giữa (Trường Sa Đông), đá Grierson (Sinh Tồn Đông), Hòn Sập (Phan Vinh), và đảo An Bang.

Thiếu tá Ngô Sĩ Ta (Chủ nhiệm chính trị trung đoàn 146) và ông Võ Xuân Triều (Phó phòng Quân báo hải quân) chỉ huy lực lượng hải quân đi trên tàu HQ-679 từ Cam Ranh ra đóng giữ bãi đá san hô Grierson. Ngày 15 tháng 3 năm 1978, Hải quân Việt Nam đã hoàn thành việc đổ bộ và triển khai nhiệm vụ bảo vệ đá này.[3]

Ngày 25 tháng 4 năm 1978, khi ra kiểm tra đảo đá Grierson cùng Chính ủy quân chủng Hải quân Hoàng Trà, Tư lệnh quân chủng Hải quân Giáp Văn Cương đề nghị đổi tên Grierson thành đảo Sinh Tồn Đông.